Bìa tạp chí

 

009bet

Đánh giá tính an toàn trong 28 ngày của cao khô Ba Kích

Vương Duy Tiến Nguyễn Thị Liên
Ngày nhận: 01/06/2022
Đã sửa đổi: 19/07/2022
Ngày chấp nhận: 19/07/2022
Ngày đăng: 05/10/2022

Chi tiết

Các trích dẫn
Vương Duy Tiến, Nguyễn Thị Liên. "Đánh giá tính an toàn trong 28 ngày của cao khô Ba Kích". Tạp chí Kiểm nghiệm và An toàn thực phẩm. tập 5 - số 3, pp. 226-234, 2022
Phát hành
PP
226-234
Counter
341

Main Article Content

Tóm tắt

Cao khô Ba kích được đánh giá độc tính liều lặp lại 28 ngày trên thỏ. Trong thử nghiệm độc tính liều lặp lại, thỏ được uống cao khô Ba kích với liều 0,2 g/kg và 1,0 g/kg trong 28 ngày. Mẫu máu được lấy vào các ngày 0, 14 và 28 để kiểm tra các chỉ số sinh hóa và huyết học. Mẫu gan và thận được lấy vào ngày 28 để làm giải phẫu mô bệnh học. Kết quả thử nghiệm liều lặp lại 28 ngày  cho thấy cao khô Ba kích không gây ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đến các chỉ số sinh hóa và huyết học, không gây tổn thương đến mô bệnh học của thận. Tuy nhiên cao khô Ba kích ở cả 2 mức liều thử đều gây gây hiện tượng thoái hóa mỡ và sung huyết ở gan của thỏ thí nghiệm.

Từ khóa:

Cao khô Ba Kích, độc tính liều lặp lại, chỉ số huyết học, chỉ số sinh hóa, mô bệnh học

Trích dẫn

[1]. Institute of Medicinal Materials, Medicinal plants and medicinal animals in Vietnam, Science and Technics Publishing House, 2006, volume I, pp. 101 – 106
[2]. Do Trung Dam, Method to determine acute toxicity of drugs, Medical Publishing House, Hanoi, 2014.
[3]. “Guidelines for preclinical testing of Oriental medicine and herbal medicine” (Promulgated together with Decision No. 141/QD-K2DT dated October 27, 2015 of the Ministry of Health).
[4]. “OECD Guidelines for Testing of Chemical”, Repeated Dose 28 - Days Oral Toxicity study in Rodents, OECD 407, 2008.
[5]. V. Sharma and J. H. McNeill, “To scale or not to scale: The principles of dose extrapolation,” British Journal of Pharmacology, vol. 157, pp. 907-921, 2009.
[6]. Ministry of Health (2017), Vietnam Pharmacopoeia V, Science and Technics Publishing House, volume II, pp. 1064-1065.

 Gửi bài